Những kinh nghiệm thiết kế thời trang của tôi bao gồm cảm
xúc; nhận thức sáng tạo; cảm giác; kiến thức, học thuật, nghệ thuật, thể chất, tổ
chức, truyền thông xã hội, giao lưu văn hóa tự nhiên, và nhận dạng xã hội. Thực
hiện đúng kinh nghiệm trên sẽ thành công trên mọi lĩnh vực và nó nhất định diễn
ra một cách có trật tự. Những định nghĩa câu chuyện thiết kế thời trang này, tôi
áp dụng vào thực tế tại Việt Nam.
Chúng tôi đang đi vào thế giới
hóa kỹ thuật số (Digital), những trải nghiệm này cùng với những thực hiện theo
nghi thức truyền thống, họ được truyền đạt tới đông đảo khán giả thông qua sự
tham gia trực tiếp của các nền tảng truyền thông xã hội, tạo cơ hội và thách thức
mới cho nhà tiếp thị.
Trong bối cảnh của ngành công
nghiệp thiết kế thời trang có một khoảng trống đáng kể trong các tài liệu học
thuật liên kết với nhau những khái niệm về cộng đồng kinh doanh, và kinh nghiệm
truyền tải với tiếp thị kỹ thuật số. Mục tiêu bài viết này là để khám phá vai
trò của thiết kế thời trang trong thời đại kỹ thuật số, liên quan đến mô hình
"Khách hàng trung tâm" của cộng đồng kinh doanh thời trang.
Trong bối cảnh cụ thể cho ngành
công nghiệp thời trang và trong thời đại kỹ thuật số ngày nay, dự đoán sẽ mở rộng
mô hình (Khách hàng trung thành). Mở ra một khuôn khổ độc đáo, vai trò của người
tham dự trình diễn thời trang sẽ được thực hiện như là (khách hàng quan trọng),
do đó dẫn đến đóng góp kiến thức và dự báo cho việc giá trị với khái niệm kinh
doanh giả thuyết hóa với kinh nghiệm tiếp thị, truyền thông tường thuật và tiếp
thị kỹ thuật số.
Hiện nay rất cần sự đóng góp về mặt
học thuật thiết kế thời trang, như vậy sẽ cung cấp những gợi ý về quản lý tiềm
năng trong thực tiễn, phù hợp với lợi ích của các nhà tiếp thị thời trang để tận
dụng các lợi ích nhận thấy và động lực để tham dự buổi trình diễn thời trang
cũng như để hiểu được giá trị của các mối quan hệ trong cộng đồng thương hiệu kinh
doanh, và trong các phương tiện truyền thông xã hội.
Tôi hy vọng trong tương lai có những
chương trình thảo luận về văn học tương ứng liên quan đến thiết kế thời trang và
kinh nghiệm tiếp thị, cộng đồng thương hiệu cùng đi lên với tiếp thị kỹ thuật số.
Khung và lý thuyết sẽ được giải thích và phân tích từ các quan điểm học thuật
tương phản. Khi chúng ta có điều kiện sẽ phác thảo một tài khoản chi tiết của
phương pháp nghiên cứu được sử dụng để hoàn toàn giải quyết mục tiêu thời trang.
Đồng thời chúng ta cùng giải thích cho các kỹ thuật nghiên cứu định tính và các
kỹ thuật phân tích dữ liệu. Theo phân tích chủ đề quy nạp, trình bày dữ liệu
thu được từ nghiên cứu quan sát và phỏng vấn dựa trên các mục tiêu nghiên cứu.
Một cuộc thảo luận sau đây sẽ
liên kết phân tích với tổng quan tài liệu đã được khảo sát và thông qua mô hình
(Khách hàng trung tâm) mở rộng. Cùng lúc phản ánh toàn bộ quá trình nghiên cứu
và sau đó là một lời giải thích cho biết mục tiêu đã đạt được. Nếu một đóng góp
thảo luận đã được cung cấp.
Thảo luận vì mục đích để tiến bộ,
có thảo luận và phân tích mới phát hiện quan điểm tích cực.
Những cuộc phỏng vấn và nghiên cứu
quan sát sẽ được phân tích liên quan đến đánh giá tài liệu trong bối cảnh của một
minh hoạ đóng góp chính của nghiên cứu mối quan hệ thương hiệu khách hàng. Ngoài
ra, thảo luận thiết kế thời trang còn cung cấp các tiềm năng quản lý tiềm ẩn
cũng như các khuyến nghị để tạo kinh nghiệm cho trình diễn thời trang hiệu quả
hơn và có thể áp dụng được cho thời đại kỹ thuật số.
Thiết kế thời trang cung cấp những
kinh nghiệm phi thường kích thích nhiều giác quan, thông qua mô-đun (Modul tỷ số ấn xuất) theo kinh
nghiệm chiến lược, và bằng cách thực hiện vận chuyển tường thuật thông qua các
yếu tố không gian được quan sát trong phân tích khung.
Lý thuyết phân tích khung tương
quan với nghiên cứu quan sát được thực hiện, được phác thảo trong những lần
trình bày thiết kế thời trang. Ở đây có tính cách tái tạo lại từ cái gì đó (vô
nghĩa thành cái gì đó có ý nghĩa) thông qua việc sử dụng cơ sở hạ tầng, thực hiện
cắt may, và thiết bị kỹ thuật.
Kinh nghiệm tiêu thụ độc đáo này
đã trưng bày các "mô đun" mang tính chiến lược thu hút nhiều ý nghĩa,
bao gồm tiếp thị cảm giác:
1) Mùi của một loại nước hoa nặng
bạc hà và gia vị gợi lên ý nghĩa của món souk Ma-rốc.
2) Âm thanh của nhạc cơ bản.
3) Cảnh vật trang trí sang trọng.
Tiếp thị hành động đã được hiển
thị khi người tiêu dùng tham gia vào sự kiện bằng cách nhảy múa, mua đồ pha chế
hỗn hợp và hòa lẫn với nhau với người biểu diễn. Liên kết tiếp thị cũng có thể được áp dụng khi
người tiêu dùng được gợi hứng để ăn mặc giống như các mô hình và các thành viên
khán giả khác, do đó gây ra ham muốn theo ước muốn.
Nói chung, trải nghiệm của khách hàng tổng thể
có thể nói là nắm bắt các tương tác và mối quan hệ, sự kiện thể chất, các sản
phẩm được trưng bày và giao tiếp chia sẻ bởi ban quản lý. Điều này cho thấy
kinh nghiệm này đồng thời với sản phẩm, vì mỗi yếu tố tạo ra mối liên hệ với
khách hàng.
Đặc biệt khi trình diễn thời trang có sự tương
tác giữa các thành viên khán giả. Khán giả đóng vai trò tích cực trong suốt bsinh
hoạt, thông qua trao đổi kiến thức và thông tin có giá trị. Do đó, các nhà quản
lý không nên coi mình là nhà sản xuất thời tranh hay nhà tổ chức bổi trình diễn,
thay vào đó nên tập trung vào việc tạo ra những trải nghiệm thu hút các mô hình
kinh nghiệm chiến lược, kích thích sự trao đổi giữa các thành viên. Quan điểm
này về tiếp thị kinh nghiệm cho thấy công việc đòi hỏi tiếp thị kinh nghiệm là
một sự tương tác, có thể được thực hiện mạnh mẽ hơn thông qua một cộng đồng
thương hiệu.
Quan hệ khách hàng quan trọng lắm, một trong những
yếu tố xác định của thương hiệu và có khả năng chia sẻ tài nguyên thiết yếu, bao
gồm chuyên môn và thông tin. Sự trao đổi này tôi đề xuất mối quan hệ giữa các
bên khác nhau tạo nên một cộng đồng thương hiệu. Tại một cuộc trưng bày thời
trang, khách hàng tiêu dùng - trong trường hợp này là người mua - tương tác với
nhà tiếp thị sản phẩm.
Thương hiệu, người mua và các thành viên khán
giả ba bên chung một cộng đồng thiết kế thời trang hay thương hiệu. Kết luận mối
quan hệ giữa khách hàng đầu mối và mỗi bên là đối ứng và phụ thuộc vào kinh
nghiệm tổng thể. Mối quan hệ giữa nhà thiết kế thời trang (thương hiệu) và người
mua bao gồm người cung cấp tất cả đều trong phản hồi chung (ban quản lý), trong
khi quản lý cũng có thể chia sẻ thông tin cho người mua.
Quản lý tiếp thị cũng có thể cung cấp kinh nghiệm
đáng nhớ, lý tưởng nhất là bằng cách vận chuyển hành trình thông qua sự tham
gia của khán giả. Giao tiếp một thuận tiện đặc biệt có liên quan với kinh nghiệm
chỉ cần một buổi tối ăn nhẹ sẽ mở ra cánh cửa mua sắm của khách hàng.
(Huỳnh Tâm)
